!important;Những món ăn giàu vitamin A, D, chất sắt, canxi... bổ sung dưỡng chất giúp tăng chiều cao cho trẻ.
Theo phó !important; giáo sư - tiến sĩ Nguyễn Thị Lâm, Phó viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia, các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe và chiều cao gồm: suy dinh dưỡng lúc nhỏ và thiếu vi chất dinh dưỡng. Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chiều cao cho thấy chỉ 23% là di truyền, quan trọng nhất là chế độ dinh dưỡng chiếm đến 32%; còn lại tâm lý và môi trường sống, rèn luyện thể lực.
Suy dinh dưỡng
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở nước ta vẫn cò !important;n ở mức cao trong khu vực. Ước tính cứ 4 trẻ dưới 5 tuổi thì có một bé bị thấp còi. Cả nước có khoảng hàng triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng, hàng nghìn trẻ tử vong do những nguyên nhân liên quan đến suy dinh dưỡng.
Trẻ bị thấp cò !important;i lúc 3 tuổi, khi đến 18 tuổi sẽ có chiều cao thấp hơn so với chiều cao bình thường có thể đạt đến. Ước tính, nếu lúc 3 tuổi trẻ bị thấp còi vừa, chỉ đạt chiều cao là 85,3 cm thì khi 18 tuổi trẻ chỉ có thể đạt được chiều cao 1,62 m. Trong khi nếu trẻ phát triển tốt, 3 tuổi cao 94,5 cm thì chiều cao khi 18 tuổi sẽ là hơn 1,7 m.
Ảnh minh họa
Thiếu vi chất dinh dưỡng
Vitamin A:
Tỷ lệ vitamin A huyết thanh thấp ngay cả ở trẻ dưới 6 thá !important;ng tuổi- giai đoạn bú sữa mẹ chứng tỏ sữa mẹ cũng thiếu vitamin A. Nguyên nhân do bà mẹ khi cho con bú chế độ ăn không tốt, thấp A trong sữa, vì thế phụ nữ mang thai bổ sung vi chất này.
Thiếu vi chất nà !important;y làm giảm miễn dịch, ảnh hưởng đến tăng trưởng của trẻ, làm trẻ chậm lớn cả cân nặng và chiều cao, làm thoái hóa, sừng hóa các tế bào biểu mô, giảm chức năng bảo vệ cơ thể, gây bệnh khô mắt, khô giác mạc, nhuyễn giác mạc dẫn đến hậu quả sẹo giác mạc và mù vĩnh viễn. Thiếu vitamin AA làm giảm khả năng miễn dịch ở trẻ tăng tỷ lệ mắc các bệnh và tử vong ở trẻ.
Nguồn thực phẩm già !important;u vitamin A:
Thức ăn có !important; nguồn gốc động vật có nhiều vi chất này hay retinol tốt nhất. Vì gan là nơi dự trữ vitamin A nên gan có thành phần retinol cao nhất, chất béo từ thịt và trứng cũng chứa một lượng vitamin A đáng kể.
Nguồn tiền vitamin A, cartotenoid thường là !important; từ một số sản phẩm động vật như: sữa, kem, bơ và trứng.
Cá !important;c thức ăn nguồn gốc thực vật có nhiều tiền vitamin A như các loại rau củ quả có màu vàng, đỏ, các loại rau màu xanh sẫm, dầu cọ và các loại dầu ăn khác. Khi vào cơ thể, tiền vitamin A sẽ được chuyển thành vitamin A theo tỷ lệ 12:1 đối với hoa quả chín và 22-24:1 đối với rau xanh.
Thiếu má !important;u thiếu sắt
Thiếu má !important;u là giai đoạn cuối cùng của thiếu sắt trong cơ thể. Hậu quả giảm phát triển cơ thể cả cân nặng và chiều cao, giảm khả năng nhận thức và phát triển tinh thần, vận động. Trẻ bị thiếu máu khi một tuổi làm giảm IQ 5 điểm.
Thiếu má !important;u, thiếu sắt cũng làm giảm sức đề kháng với các bệnh nhiễm khuẩn, giảm nội tiết, giảm sản xuất và chuyển hóa catecholamin và các chất trung gian truyền dẫn thần kinh.
Nguồn thức ăn già !important;u sắt:
Sắt trong thực phẩm ở hai loại: dạng sắt heme hoặc khô !important;ng heme. Dạng heme có trong thức ăn nguồn gốc động vật; dạng sắt này có thể dễ dàng được hấp thu ở ruột, trong khi hấu thu sắt không heme phụ thuộc vào sự có mặt của một số chất làm tăng cường hay cản trở hấp thu sắt. Vitamin C, protit động vật và các axít hữu cơ trong hoa quả và rau có tác dụng làm tăng khả năng hấp thu chất sắt không heme.
Cá !important;c chất ức chế hấp thu sắt: phytate trong gạo và các loại ngũ cốc, tannin trong một số loại rau, trà và cà phê.
Vitamin D
Vitamin nà !important;y giúp cơ thể sử dụng tốt canxi và phosphor để hình thành và duy trì hệ xương, răng vững chắc. Tại ruột non nó giúp cho hấp thu canxi và phosphor từ khẩu phần ăn.
Người mẹ khi mang thai và !important; khi cho con bú phải ăn uống đủ chất, tắm nắng hoặc uống vitamin D liều 200.000 IU vào lúc mang thai tháng thứ 7. Trẻ sau khi sinh cần được tắm nắng trung bình 15 phút mỗi ngày trước 9h sáng. Mùa đông trẻ không được tắm nắng cần cho uống vitaminD 3 liều dự phòng.
Nguồn vitamin D có !important; trong thực phẩm. Một số dầu gan cá, nhất là ở các loài các béo, gan và chất béo của động vật có vú ở biển (hải cẩu và gấu vùng Bắc cực). Hầu hết trong cá có từ 5mcg/100 g tới 15mcg/100 g, các trích có thể có tới 40 mcg/100 g.
Trứng gà !important; được nuôi, dầu ăn có bổ sung vitamin D.
Canxi
Canxi cù !important;ng vitamin D giúp cơ thể hình thành và duy trì hệ xương, răng vững chắc. Cần duy trì mức canxi trong máu hằng định, cần cho hoạt động của hệ thần kinh và co cơ.
Nguồn thực phẩm già !important;u canxi:
Sữa và !important; các chế phẩm từ sữa: sữa mẹ (34 mcg/100 ml), sữa bò (120 mg/100 ml), fomat (780 mg/100 g).
Cá !important; con (60-70 mg/100 g), cá dầu (527 mg/100 g), cua (120 mg/100 g), lòng đỏ trứng gà (134 mg/100 g).
Rau dền (300 mg/100 g), rau ngó !important;t, mồng tơi (170 mg/100 g), rau muống (100 mg/100 g).