Bạch hầu là một bệnh nhiễm vi khuẩn nghiêm trọng rất dễ lây lan. Là một bệnh nguy hiểm, nhưng có thể đề phòng dễ dàng bằng cách tiêm phòng vắcxin. Vậy bệnh bạch hầu là gì?
Bệnh bạch hầu là gì?
Bạch hầu là một bệnh nhiễm vi khuẩn nghiêm trọng rất dễ lây lan qua đường hô hấp hoặc qua các đồ dùng, thực phẩm
Khi bị bệnh thường phát sinh những triệu chứng như viêm Amidan, chứng đau họng, đi kèm với chứng ho, giông như tiếng chó sủa. Nếu không chữa trị mau, bệnh nhiễm trùng này có thể phát ra viêm phổi và suy tim do cơ tim bị tê liệt. Các bắp thịt ở chân tay có thể yếu đi và cũng trở nên liệt. Một mạng mỏng màng xám hình thành trên hai hạch hạnh nhân (Amidan) và có thể làm trẻ khó thở nếu liên lụy tới thanh quản.
Lứa tuổi hay mắc bệnh bạch hầu là trẻ em từ 2 đến 7 tuổi (hoặc lứa tuổi lớn hơn nếu không được tiêm phòng)
Các thể bệnh bạch hầu
Theo bác sĩ Phạm Ngọc Giao, Trưởng Khoa Nhi D, Trung tâm Bệnh nhiệt đới (TP HCM), bệnh có 4 thể lâm sàng: bạch hầu họng thể thông thường (70%), bạch hầu ác tính, bạch hầu thanh quản (26%) và bạch hầu mũi (4%).
- Bạch hầu thể họng thông thường:
Thời kỳ nung bệnh 2-5 ngày (không có triệu chứng lâm sàng).
Sau đó là thời kỳ khởi phát với triệu chứng sốt nhẹ (38-38,5 độ C), sổ mũi 1 hoặc 2 lần, niêm mạc họng đỏ, kém sáng hơn. Xuất hiện những chấm trắng mờ và mỏng, hạch dưới hàm sưng to và đau.
2-3 ngày sau là thời kỳ toàn phát, trẻ cảm thấy khó nuốt, nuốt vướng, đau cổ họng, người mệt mỏi xanh xao. Trong họng xuất hiện màng trắng ngà, dính chặt vào lớp thượng bì bên dưới, khi bong tróc rất dễ chảy máu. Màng giả này lan tràn rất nhanh ở 1 hoặc 2 bên amiđan. Bệnh nhân sốt khoảng từ 38 đến 38,5 độ C và ở tình trạng nhiễm độc, da xanh tái, mạch nhanh, huyết áp hạ.
- Bạch hầu ác tính: gồm 2 thể.
Thể tiên phát xuất hiện ngày đầu hoặc ngày thứ 2 của bệnh, với những dấu hiệu đột ngột như sốt cao (39-40 độ C) mệt lả, da xanh tái, nôn, nuốt đau, màng giả lan nhanh 2 bên amiđan, hơi thở hôi, hạch cổ sưng to, cổ bạnh ra. Bệnh nhân dần dần bị mệt lả, tím tái, sốt cao, xuất huyết nhiều nơi, khi uống nước sẽ bị sộc ra mũi, huyết áp hạ, mạch nhanh. Bệnh nhân có thể bị tử vong.
Thể thứ phát thường xuất hiện sau bạch hầu họng thông thường do điều trị muộn.
- Bạch hầu thanh quản:
Phần lớn do bạch hầu họng thể thông thường không được điều trị kịp thời gây ra. Ở thể này, màng giả lan xuống tận thanh quản.
- Bạch hầu mũi:
Rất hiếm gặp. Ngoài các triệu chứng sốt nhẹ, da xanh, ăn hay bị nôn, bệnh nhân còn bị lở trong lỗ mũi và cánh mũi.
Các biến chứng
- Viêm cơ tim: Đây là biến chứng thường gặp nhất, do ngoại độc tố bạch hầu gây ra. Viêm cơ tim có thể xuất hiện vào ngày thứ 2 đến ngày thứ 7 của bệnh, nhưng cũng có thể muộn hơn, từ 15 đến 40 ngày. Ngoài ra có thể có những biến chứng về tim mạch khác.
- Biến chứng thần kinh: Thường xảy ra sau vài tuần. Xuất hiện triệu chứng lác mắt, liệt cơ hoành, liệt một hoặc nhiều chi, đa viêm thần kinh ngoại biên.
- Các biến chứng về thận và hô hấp.
Phòng và chữa bạch hầu
Các bệnh nhân bạch hầu cần được phát hiện sớm và đưa ngay tới cơ sở điều trị để được săn sóc và tránh lây lan. Phương pháp điều trị được áp dụng là dùng huyết thanh kháng độc tố bạch hầu, giải độc tố bạch hầu… Những trường hợp khó thở, bệnh nhân sẽ được phẫu thuật để mở khí quản.
Để phòng bệnh, trẻ phải được tiêm phòng DPT đúng theo lịch của chương trình tiêm chủng quốc gia. Đối với trẻ ngoài 7 tuổi, phụ huynh có thể đưa đi tiêm phòng bạch hầu (mỗi mũi 7.000 đồng - có thể ngừa được 5 năm) tại phòng khám bệnh Trung tâm Bệnh nhiệt đới và các sơ sở y tế dự phòng. Lưu ý chỉ tiêm phòng cho trẻ khi trẻ ở trong trạng thái sức khỏe bình thường.